VẤN ĐẠO với Nữ Thiền Sư Achaan Naeb
A: - Sư cảm nhận như thế nào về pháp hành của sư?
T: - Việc thực hành trước đây chỉ là lý thuyết.
A: - Làm sao sư biết được đó là lý thuyết hay không phải lý thuyết?
T: - Giờ đây tôi biết bằng trí tuệ minh sát (bhāvanāpaññā, khác vipassanāpaññā là tuệ minh sát - (xem lại phần 1.5.1 nói về ba loại tuệ thực hành), tuy thế vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng.
A: - Sư nhận ra văn tuệ (suta paññā), thẩm nghiệm tuệ (cintā paññā) và tu tuệ hay minh sát tuệ (bhāvanā paññā) bằng cách nào?
T: - Ðêm qua khi nằm xuống, tôi thấy sắc nằm chứ không phải tôi nằm. Chỉ một chút thôi nhưng không rõ lắm. Rồi nó biến mất. Do đó, tôi biết việc thực hành của tôi trước đây chỉ là lý thuyết.
A: - Minh sát tuệ nhận ra thực tánh rằng sắc nằm đang hiển bày, nhưng chúng ta không phải lúc nào cũng thấy. Có thể chợt thấy, và nó liền biến mất. Mặc dù chúng ta thấy nó chỉ một thoáng như vậy, song chúng ta biết nó hoàn toàn khác. Rồi tuệ thực hành lại tiếp tục. Và sát-na hiện tại vuột mất. Nhưng điều đó không sao. Chỉ tại minh sát tuệ không nảy sanh thôi.
Ngay lúc này, sư có cảm giác là sư đang thực hành hay không? Nếu sư cảm thấy mình đang hành, cảm giác ấy là sai. Cảm giác đó đã che án trí tuệ. Sư phải ngồi trước đã, và sau đó sư mới quán sắc ngồi. Rồi khổ sanh lên và sư phải thay đổi oai nghi để chữa khổ. Không phải ngồi để thấy sắc, mà là để thấy khổ.
T: - Làm thế nào chúng ta có thể ngăn ngừa được ý nghĩ rằng chúng ta đang hành thiền?
A: - Sư phải có tác ý đúng. Sư phải thay đổi oai nghi bởi khổ buộc sư phải thay đổi. Cũng như sư phải nhận ra rằng sư phải ngồi, nằm, đi, đứng... mặc dù sư không muốn như vậy. Sư cần phải yoniso thường xuyên. Nhờ đó, có thể ngăn tham ái không lẻn vào. Lúc nào sư cũng phải cố gắng loại trừ tham ái cho đến khi sư đạt đến sự thanh tịnh, như vậy sư có thể có được kết quả đúng. Giới phòng hộ các căn (indriyasaṃ-varasīla) của sư như thế nào? Có giữ gìn tốt không?
T: - Có. Tôi luôn luôn áp dụng giới chế ngự các căn này.
A: - Nếu sư không có "lục căn thu thúc giới" thì thật là tai hại. Nó cũng giống như uống thuốc mà không theo lời chỉ dẫn vậy. Nếu sư uống thuốc theo cách đó, bệnh sẽ không đỡ hơn. Cũng thế, nếu sư chỉ có thực hành mà không phòng hộ các căn thì thật là vô ích. Vì vậy, sư phải có giới thu thúc lục căn đó để việc thực hành tốt hơn. Chẳng hạn, "danh nghe" hay "danh thấy" là phòng hộ các căn, bởi vì "sư" không đang nghe và "sư" không đang thấy.
(Ngày khác, vị sư thứ hai)
A: - Sư nói pháp hành của sư khá hơn, ý sư muốn nói gì?
T: - Ý tôi muốn nói là tôi đang thực hành việc quán Danh - Sắc trong sát-na hiện tại rất liên tục, nhưng có lúc đó chỉ là tuệ thẩm nghiệm (cintā paññā).
A: - Sao sư biết được đó là cintāpaññā hay là bhāvanāpaññā? Cintāpaññā nghĩa là sư đang thực hành, nhưng theo cách sư được thiền sư chỉ bảo. Bhāvanāpaññā là sư tự mình biết. Bhāvanāpañña (minh sát tuệ) là kết quả phát sanh khi sư quán Danh - Sắc trong sát-na hiện tại. Danh - Sắc ấy đang dạy cho sư đi đúng hướng. Nhờ vậy, sư biết được kết quả sẽ là đúng.
T: - Hai ba hôm vừa rồi tôi cảm thấy mệt.
A: - Mệt có phải là Pháp hay không?
T: - Phải.
A: - Sư nghĩ đó là Pháp như thế nào? Mệt mỏi là thực tánh Pháp, bởi vì khổ là đối tượng của Pháp. Sư đến đây thực hành để thấy khổ. Sư càng thấy khổ, sư sẽ càng nhàm chán (yếm ly) đối với khổ. Khi sư thấy ít khổ sư sẽ không nhận chân được nó. Chẳng hạn, thọ khổ trong tứ oai nghi. Khi sư bị khổ nhiều, sư không còn muốn nhìn vào nó nữa. Chẳng hạn như khi sư bị bệnh. Phớt lờ khổ làm cho sư thoải mái, nhưng sư không thể đoạn tận khổ theo cách đó. Thực sự mà nói thì ai cũng có khổ, nhưng họ không thực chứng Thánh đế này. Tại sao? Bởi vì họ muốn cứu chữa cái khổ đó, hoặc làm cho nó biến mất. Khổ thì có rất nhiều, nhưng họ nghĩ rằng nó vô ích, bởi vì khổ chỉ làm cho họ khó chịu, làm cho họ yếu đuối, mệt mỏi. Nếu họ không quán sát cái khổ ấy, làm sao họ có thể đạt đến Thánh đế được, bởi vì khổ là Ariyasacca (Thánh đế).
Khi khổ khởi lên, thường sẽ có hai loại - khổ thọ (dukkha vedanā) hoặc hành khổ (sankhāra dukkha). Nhưng hành giả rất khó thấy, khó nhận ra. Ðiều này có nghĩa là ngay cả khi thay đổi oai nghi cũng có khổ. Khổ tướng (dukha lakkhana) - tức Tam tướng và Khổ Thánh đế (Dukkha Ariyasacca) thậm chí còn khó hơn nữa. Khổ thọ (cái đau thông thường nơi các oai nghi) rất dễ thấy, và hành giả có thể giác ngộ nhờ quán nó.
Ðiều quan trọng ở đây, nếu không muốn nói là tất yếu, là đừng bao giờ thay đổi oai nghi bởi vì sư nghĩ là sẽ được ngồi để thực hành, hay đi để thấy sắc đi, thay vì oai nghi phải thay đổi đơn giản là vì khổ cần được chữa, thế thôi.
(Vị sư đầu tiên)
T: - Hai ba hôm rồi tôi không thể chú tâm trong sát-na hiện tại
A: - Bởi vì sư có quá nhiều định nên sư buông mất sát-na hiện tại. Sư cần phải có sự tỉnh thức hơn nữa, cố gắng tỉnh thức hơn nữa. Còn điều khác, là sư quán khổ quá ít, vì thế mà khổ qua mặt sư. Sư phải nhận ra sự thực của sabhāva (thực tánh). Khổ là sự thực (chân lý). Danh và Sắc là sự thực. Tại sao nó là sự thực? Bởi vì nó không nằm trong sự kiểm soát của sư. Và sự thực (chân lý) chúng ta không thể thay đổi được. Chẳng hạn, sắc không thể đổi thành danh và danh cũng không thể đổi thành sắc được. Tứ oai nghi là sắc, và nó là sự thực. Phóng tâm cũng là sự thực nữa.
Khi sư thay đổi oai nghi, sư yoniso (tác ý) như tbế nào?
T: - Vì khổ buộc phải thay đổi.
A: - Sư thay đổi oai nghi bao nhiêu lần trong một ngày?
T: - Rất nhiều.
A: - Như vậy, ý sư muốn nói rằng khổ phát sanh quá nhiều lần đến độ sư không thể nhớ nổi. Thế thì tại sao sư có thể nghĩ là sư thoải mái? Sư không thấy khổ, bởi vì sư ít quán sát khổ. Trước tiên khổ phải nảy sanh đã, rồi sư mới thay đổi oai nghi. Sư cần phải theo dõi điều này. Khi thay đổi oai nghi, sư phải ghi nhận xem phiền não có mặt hay không. Bởi vì phiền não làm cho sư có tác ý không chân chánh. Sư phải biết là sắc ngồi khổ chứ không phải sư khổ, và tác ý chân chánh này sẽ ngăn không cho phiền não (sân) lẻn vào. Hơn nữa, sư cũng phải biết là sư buộc phải thay đổi sang oai nghi mới và điều đó sẽ ngăn không cho tham khởi lên. Khi sư không có khổ, nhưng sư muốn thấy khổ và mong cho khổ phát sanh. Sư không nên làm như vậy, bởi vì đó là tham. Phiền não rất là vi tế. Nếu như sư không biết nó vi tế như thế nào, sư có thể không để ý tới nó, và nó sẽ lẻn vào khi sư đang quán sát mà không chân chánh tác ý. Do đó, sư phải chú ý khi sư thực hành để xem coi phiền não có lẻn vào hay không. Sự chú ý này chúng ta gọi là sikkhati (quán sát pháp hành). Pháp hành minh sát cũng giống như việc nghiên cứu bất cứ một môn học nào, sư phải biết cả lý thuyết lẫn thực hành. Khi thực hành cũng như giờ làm thí nghiệm, ở đây, sư áp dụng cái lý thuyết mà sư đã học. Nếu sư có sự quán sát tốt trong lúc thực hành thì khi phiền não xâm nhập, sư sẽ biết kịp thời.
Ðiều quan trọng là sư phải luôn luôn có Danh - Sắc làm đối tượng một cách liên tục. Ðừng tập trung vào một phần nào của sắc - hãy thấy toàn thể sắc. Khổ phải khởi lên trước rồi sau đó sư mới nhận ra nó. Ðừng cố gắng dự đoán trước. Nếu như sư đang chờ đợi khổ, sư sẽ mất sát-na hiện tại. Cũng giống như mở một cánh cửa. Sư mở hé thì phiền não nhỏ chui vào. Còn mở lớn thì phiền não lớn đi vào vậy. Nếu sư ở trong sát-na hiện tại thì tựa như sư đã đóng cánh cửa lại, phiền não không thể lẻn vào được.
T: - Có lúc tôi quên và không quán Danh - Sắc, vì thế tôi cảm thấy có tội là mình đã đãng trí.
A: - Khi sư quên và cảm thấy hối hận, điều đó có nghĩa là sư đã buông mất sát-na hiện tại. Hối hận là tâm sân và nó cũng là phiền não. Vì thế, phiền não đã có mặt. Phiền não rất là vi tế, nó có thể lẻn vào bất cứ lúc nào. Nếu như sư không có tác ý chân chánh sư không thể thực hành được, sư sẽ không hiểu được rằng cảm giác (tội lỗi) ấy là phiền não.
Dukkha (khổ), cho dù sư chỉ thấy một chút ít, điều đó cũng tốt. Song nếu sư thấy nhiều dukkha hơn, sư sẽ nhận ra rằng Khổ là chân lý.
(Ngày khác. Vị sư thứ hai)
A: - Sư nói "thoải mái", ai là người thoải mái? Có phải năm uẩn thoải mái không? Chỉ có một uẩn có thể xem là danh thoải mái. Ðiều này có nghĩa là sư có lạc điên đảo (sukkha-vipallāsa) về tâm. Nếu sư hành đúng cách sư sẽ không cảm thấy thoải mái. Bởi lẽ người hành thiền không bao giờ nghĩ là mình thoải mái cả; nghĩ như vậy là không hợp với những nguyên tắc của Ðức Phật. Hành giả không nên nghĩ là ta thoải mái, bởi vì điều đó không đúng. Hành giả phải nhận ra khổ. Khi sư nhận ra khổ, sư sẽ thấy không có thoải mái.
Sư đã thấy dukkha (khổ) chưa? Sư không thấy khổ bởi vì sư không quán, hay bởi vì không có khổ?
T: - Tôi cảm thấy khổ nhưng không nhiều lắm. Nếu tôi ngồi lâu hơn nữa cho đến khi bị đau nhức nhiều để thấy khổ, rồi tôi có thể thay đổi oai nghi và thấy khổ hơn nữa, như thế có đúng không?
A: - Không, hành như vậy không đúng. Tại sao sư lại muốn thấy khổ, điều đó có nghĩa là phiền não đã có mặt. Khi sư không muốn thay đổi oai nghi là tham ái đã xen vào, bởi vì tham ái muốn thấy khổ.
T: - Khi tôi thực hành, tôi rất dễ bị hoảng sợ.
A: - Người nào có định sẽ rất dễ hoảng sợ. Ðịnh là vậy. Khi sư đang hành và khi sư không thực hành, sư có nhận ra sự khác biệt gì không?
T: - Khi tôi tập trung vào hành xứ (kammaṭṭhāna: - đề mục tham thiền), tôi cảm thấy buồn ngủ.
A: - Sư cảm thấy buồn ngủ là vì định. Ðừng tập trung vào kammaṭṭhāna. Nếu sư làm như vậy, định sẽ sanh. Khi thọ khổ khởi lên nếu sư cố tình không thay đổi oai nghi thì điều đó có nghĩa là sư đang tập trung vào hành xứ. Theo cách bình thường, khi thọ khổ khởi sư phải thay đổi oai nghi. Nếu sư không thay đổi là sư đang tập trung vào kammaṭṭhāna và định sẽ theo sư.
Vì vậy, đừng có làm điều gì bất thường. Nếu sư cảm thấy là mình đang tập trung vào hành xứ, chỉ cần dừng lại.
(Ngày khác, vị sư đầu tiên)
A: - Sư hành ra sao rồi? Có khả quan không?
T: - Có, rất khả quan, nhưng Danh - Sắc vẫn chưa hiện khởi rõ ràng.
A: - Trong pháp hành vipassanā, Danh - Sắc rất quan trọng. Trước tiên, sư phải có Danh - Sắc trong sát-na hiện tại đã, rồi sau đó Danh - Sắc sẽ hiện khởi thường xuyên, và sư sẽ nhận ra thực tánh - cái chúng ta gọi là Danh - Sắc ấy.
Tôi cảm thấy rằng việc thực hành của sư vẫn còn xen lẫn với tâm mong muốn. Sư phải loại trừ cái tâm mong muốn đó. Ðừng muốn thấy sự sanh diệt của Danh - Sắc và cũng đừng muốn thấy tam tướng. Ðừng có bất kỳ một ước muốn nào cả. Bởi vì ước muốn đó là tham ái. Phận sự của sư là chỉ việc thấy Danh - Sắc khi chúng khởi lên hay phát sanh. Sư phải nhớ là việc thấy ấy cũng giống như đang xem một vở kịch. Trước tiên sư phải có trí tuệ biết được Danh - Sắc khi chúng hiện khởi, sau đó sự thực của Danh - Sắc là tam tướng sẽ theo sau. Trí tuệ không thể khởi nếu không có Danh - Sắc trong sát-na hiện tại. Ðầu tiên sư biết Danh - Sắc bằng pháp học hay lý thuyết, sự hiểu biết ấy sẽ giúp sư nhận ra Danh - Sắc trong khi thực hành. Khi Danh - Sắc hiện khởi trong pháp hành với tuệ minh sát, chúng ta gọi là Tuệ Phân Tích Danh - Sắc (Nāma-rūpa-paricchedañāṇa) - Tuệ thứ nhất. Từ đó sư sẽ chứng nghiệm Danh - Sắc trong 16 Tuệ minh sát.
Sư thực hành theo nguyên tắc nào để nhận ra Danh - Sắc?
T: - Tôi phải có yoniso (tác ý chân chánh).
A: - Chẳng hạn, khi thấy, sư yoniso như thế nào?
T: - Khi thấy, tôi yoniso rằng đó là danh thấy.
A: - Cách sư yoniso như vậy sẽ tạo cho sư có chánh niệm tỉnh giác. Cách sư có sự tỉnh thức rất quan trọng trong việc làm cho Danh - Sắc hiện khởi. Nếu sư tỉnh thức liên tục trong suốt bảy ngày, Danh - Sắc chắc chắn sẽ hiện khởi - điều đó không có gì phải nghi ngờ nữa. Chánh niệm - tỉnh giác nghĩa là sự tỉnh thức trong đối tượng Danh - Sắc ở sát-na hiện tại. Nếu sư chỉ có chánh niệm, định sẽ xen vào. Sư thấy sắc nhưng không biết sắc gì hay danh gì, tức là sư không biết đó là sắc đi hay sắc ngồi, v.v... Như thế là sai. Nếu sư có sự tỉnh thức đúng cách, định mạnh không thể xen vào. Sư nên nhớ, định được dùng làm căn bản cho tuệ minh sát là sát-na định (khanikasamādhi), có sự tỉnh thức trong sát-na hiện tại và chỉ đủ để ngăn phiền não (các triền cái) không cho xen vào và để cho tuệ minh sát khởi sanh.
Sư sẽ là một vị thầy hướng dẫn thiền, vì thế sư phải biết pháp hành của hành giả mà sư dạy dó đúng hay sai, tại sao. Sư cũng phải biết những gì mà người ấy đang làm là đúng hay sai nữa. Nếu họ làm sai, sư phải biết lý do tại sao và sửa lại cho họ.
(Ngày khác, vị sư thứ hai).
A: - Việc hành của sư thế nào rồi?
T: - Niệm của tôi đã khá hơn trước.
A: - Chỉ có sati khá hơn, còn sự tỉnh thức không khá được, như vậy thì định có thể xen vào. Nếu sư chỉ thuần quán oai nghi ngồi, đó không phải là sự tỉnh thức, không phải là vipassanā. Sư phải biết rằng đó là sắc ngồi (tỉnh giác). Người nào quán sắc ngồi, thì trí tuệ quán đó là tinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác (ātāpi - sati - sampajañña). Nếu sư chỉ có niệm và chỉ biết oai nghi ngồi thôi thì không thể thay đổi được tà kiến nghĩ rằng chính tự ngã của ta đang ngồi. Vì thế, đó không phải là pháp hành minh sát, mà là định.
Khi sư có sự tỉnh thức đúng thì Danh - Sắc sẽ hiện khởi. Trước khi đi đến giai đoạn thực hành sư đã học hỏi để biết cái gì là sắc, cái gì là danh. Sư chỉ biết các tên gọi và những định nghĩa của nó, mà chưa biết được bản chất thực của chúng. Khi sư thực hành, lúc ấy sư sẽ thấy được thực chất của chúng, tức là sư sẽ biết những đặc tánh của sắc ngồi, biết khi nào và chỗ nào sắc ngồi hiện khởi. Chẳng hạn như khi sư đi học, sư đọc "a", "b", "c",... nhưng sư không biết hình dáng chữ mà chỉ biết âm thanh, nên khi thấy mặt chữ, sư không thể đọc được cho đến khi sư học được cách nhận dạng mặt chữ. Ðối với pháp hành cũng thế, sư phải biết cả lý thuyết lẫn thực hành - hình dáng và âm thanh. Khi Danh - Sắc hiện khởi trong tuệ minh sát, sư biết được ngay những đặc tánh của Danh - Sắc ấy. Khi thay đổi oai nghi, sư có quán sát hay không?
T: - Có, nhưng đa phần là tôi không thể theo dõi được.
A: - Khi cái đau phát sanh, sư thay đổi oai nghi mà không yoniso. Sư thay đổi oai nghi mà không biết nguyên nhân. Như vậy có nghĩa là chánh niệm - tỉnh giác không hoàn hảo. Khi đau nhức sanh, dục muốn thay đổi oai nghi, ái muốn một sắc mới. Do đó, sư phải cố gắng có yoniso để bảo cho sư biết rằng sư phải thay đổi oai nghi.
T: - Mỗi sáng sớm chuông chùa đổ quá lớn làm tôi không thể hành được.
A: - Sư không muốn nghe tiếng ồn của chuông à? Nhưng chánh kiến thiền tuệ buộc chúng ta phải nghe. Khi có đủ duyên (âm thanh và tai), cái nghe phải phát sanh, chúng ta không thể kiểm soát nó được. Tâm nghe là vô ngã. Ðừng cảm thấy khó chịu. Chỉ việc quán danh nghe, và sư sẽ thấy không có người nào nghe, không phải sư nghe.
Danh - Sắc hiện khởi, bất luận đó là Danh - Sắc gì cũng đều có lợi cho trí tuệ minh sát. Tuy nhiên, đa số thiền sinh chỉ muốn chọn Danh - Sắc nào mà họ thích, và vì thế mà phiền não mới có cơ hội xen vào. Do đó, sư phải có tác ý chân chánh.
T: - Có nhiều lúc tôi không thể ngủ được, không hiểu tại sao?
A: - Bởi vì sự tỉnh thức đã khá hơn nên đôi lúc sư không thể ngủ được. Ðiều ấy có nghĩa là việc quán chiếu của sư đã tiến bộ hơn. Sư cần ít ngủ lại. Nếu sư không có sự tỉnh thức (chánh niệm - tỉnh giác), si mê (moha) có thể xen vào và làm cho sư cảm thấy buồn ngủ. Nếu sư có tỉnh thức, ngay cả khi đang ăn sư cũng không thưởng thức hương vị món ăn, song sư vẫn ăn no đủ. Ðiều đó có nghĩa là phiền não đã giảm rất nhiều, bởi vì sư biết là sư phải ăn (chứ không phải vì muốn ăn). Sư biết vị, nhưng không có sự khoái khẩu. Sư phải ăn bởi vì sư biết mình buộc phải ăn chứ không phải vì muốn ăn. Nếu sư có thể ngăn ngừa phiền não như vậy một cách thường xuyên, chắc chắn trí tuệ sẽ sơm phát sanh vậy.
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất và thứ nhì)
A: - Quý sư hiểu như thế nào về pháp hành?
T: - Tôi cảm thấy việc thực hành của mình đã tiến bộ hơn. Tôi biết nhân quả và khi những chướng ngại phát sanh, tôi biết cách làm thế nào để chữa nó.
A: - Sư chữa những chướng ngại bằng cách nào, hay là những chướng ngại ấy tự diệt đi?
T: - Chẳng hạn khi đang quán sắc ngồi và định phát sanh, tôi biết nó và liền thay đổi sang oai nghi khác.
A: - Nếu sư không đổi oai nghi, liệu định có biến không?
T: - Cũng có khi nó tự biến, dù tôi không đổi oai nghi.
A: - Danh - Sắc đã khởi lên chưa?
T: - Thỉnh thoảng tôi có thấy nó.
A: - Sư thấy Danh - Sắc bằng pháp học hay bằng thực hành? Chúng giống hay khác nhau?
T: - Tôi đã thấy được bằng pháp hành. Biết bằng pháp học và biết bằng pháp hành khác nhau.
A: - Sư nói thấy bằng pháp học và thấy bằng pháp hành khác nhau. Cái khác ấy là gì?
T: - Nó khác với pháp học bởi vì nó được cảm nhận, chứ không phải bằng tư duy.
A: - Sắc nào sư đã thấy nhiều hơn?
T: - Tôi thấy sắc trong mọi oai nghi. Còn danh, tôi thấy danh nghe và danh thấy nhiều hơn, nhưng không được rõ lắm.
A: - Sư biết bằng pháp hành, sư dùng phương pháp nào?
T: - Tôi phải tỉnh thức (thấy với sự tỉnh thức) đối với bất cứ danh hay sắc nào tôi đang quán.
A: - Ðúng. Ðó là phương pháp đúng nhằm làm cho Danh - Sắc hiện khởi. Và sư cần phải có sự tỉnh thức liên tục cho đến khi có kinh nghiệm nhiều hơn. Nếu sư chỉ quán mà không biết sắc gì (sắc ngồi hay sắc đi v.v...) hoặc không biết các danh khác nhau thì sư sẽ thấy danh và sắc chỉ là một thứ, là "Sư" - và nguyên khối tưởng (ghanasaññā) che án sự thực này sẽ không được tách bạch ra.
Sự tỉnh thức là cái làm việc quán sát, còn Danh - Sắc là những đối tượng. Vì vậy sư phải tỉnh thức đối với danh gì và sắc gì sư đang quán thường xuyên. Nếu sư không làm như vậy, Danh - Sắc sẽ không hiện khởi. Nếu sư làm đúng, chắc chắn Danh - Sắc sẽ hiện khởi và sư sẽ thấy mỗi danh, mỗi sắc như chúng thực sự là. Nếu sư luôn có tỉnh thức như thế này, các đối tượng khác (như phóng tâm) không thể xen vào được. Nếu sư chỉ quán danh và sắc suông (mà không biết danh gì sắc gì) thì sự tỉnh thức sẽ dần dần yếu đi và dĩ nhiên không thể nào ngăn được lòng tham muốn. Khi đi, sư quán như thế nào?
T: - Khi đi, tôi quán sắc đi và tôi cũng quán bàn chân khi nó chạm sàn nữa.
A: - Sư quán sắc đi và sư quán cả sắc chạm (xúc). Thế là sai. Sư đang sử dụng tới hai đối tượng một lúc. Sắc đi là ở thân (kāya), còn xúc chạm thì nằm trong các đối tượng của Pháp quán niệm xứ (Dhammānupassanā-satipaṭṭhāna). Nếu sư quán như vậy sư không thể nào theo dõi được sắc đi và rồi sư sẽ trở nên đãng trí và định sẽ xen vào. Sư phải quán sắc đi mà thôi.
Sư quán sắc đi như thế nào? Sư nói là sư quán bước chân đi, nhưng quán như vậy là sai. Phận sự của vipassanā là nhằm tiêu diệt tà kiến nghĩ rằng "Sư" đi. Do đó, sư phải quán toàn bộ sắc đi để diệt tà kiến ấy.
T: - Có lúc tôi muốn nghiêng về định nhiều hơn, bởi vì định phát sanh rất thường - nhưng có lúc tôi lại không thể làm được như vậy. Ðịnh giúp tôi tập trung dễ hơn.
A: - Vì sao sư lại muốn định?
T: - Tôi muốn thử xem sao.
A: - Mỗi sát-na khi mà sư quán sát sư đã có định trong minh sát rồi. Khi phóng tâm nảy sanh, sư quán cái gì?
T: - Tôi quán danh phóng tâm.
A: - Phải. Sư quán như vậy rất đúng. Tuy nhiên, khi đã biết phóng tâm nảy sanh rồi thì sư phải trở lại quán sắc ngồi, hay một sắc nào khác mà sư đang quán. Ðừng để cho đến khi phóng tâm biến mất mới trở lại quán sắc và cũng đừng tác ý đến câu chuyện phóng tâm. Sư phải thấy đó như là danh phóng tâm (chứ không phải sư). Câu chuyện phóng tâm thuộc về sự thực chế định (paññatti), không phải sự thực tối hậu hay thực tánh (paramattha hay sabhāva). Còn phóng tâm tự nó là sự thực tối hậu (thực tánh). Phóng tâm rất dễ thấy. Nếu biết điều này, sẽ rất có lợi cho sư trong việc phát triển trí tuệ. Bởi vì phóng tâm là danh, phóng tâm nằm ngoài sự kiểm soát của sư, nó không phải là "Ta".
Quý sư đến thực hành thiền minh sát, nhờ vậy quý sư có thể thấy bản chất của Danh - Sắc theo những cách khác. Tam Tạng Kinh Ðiển (Tipitaka) không phải ở đâu khác, nó ở chính trong quý sư. Chúng ta đến đây thực hành minh sát, các phận sự khác không phải là chuyện quan tâm của quý sư. Phận sự của quý sư là thực hành làm sao để tam tướng trong Danh - Sắc được hiển lộ. Tuy nhiên, dù cho trí tuệ có sanh hay không cũng đừng bận tâm. Phương pháp mà quý sư sử dụng để làm hiển lộ tam tướng phải bao gồm luôn cả yoniso (tác ý chân chánh). Ðây là điều hết sức quan trọng.
Tôi mong quý sư sẽ hiểu được sự khác biệt giữa cái biết nảy sinh từ định và cái biết nảy sanh từ tuệ. Nếu cái biết đó không phải là thực tánh như nó thực sự là, thì cái biết đó chỉ là định. Khi sư quán cái thấy, sư phải biết rằng cái thấy ấy là định; biết "danh" thấy là tỉnh giác (sampajañña), hay trí tuệ. Nếu quý sư nhận ra thực tánh như chúng thực sự là, đó là chân lý và cũng là trí tuệ.
Cả hai quý sư đều đã hiểu pháp hành và việc thực hành của quý sư cũng khả quan hơn. Hai sư đều ở trong sát-na hiện tại được thường xuyên như vậy là rất tốt.
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất)
A: - Sư có chướng ngại gì trong việc thực hành không?
T: - Không nhiều lắm, chỉ một ít thôi.
A: - Ðó là gì?
T: - Khi định xen vào, tôi cảm thấy rỗng không, không có gì cả.
A: - Ðịnh xen vào ở oai nghi nào?
T: - Một vài oai nghi.
A: - Nếu sư biết oai nghi nào có nhiều định, đừng quán oai nghi đó. Chẳng hạn khi quán sắc ngồi, nếu sư trượt khỏi sắc ngồi, tức là chỉ biết có ngồi mà không biết cái gì đang ngồi, sư phải theo dõi xem tâm sư ở đâu. Tâm sư ở trong định và định là danh, hay tâm sư rỗng không (không danh hay sắc gì cả). Hoặc nó đang trú vào một đối tượng khác. Khi sư biết được tâm sư ở đâu, cái rỗng không đó sẽ biến mất.
Khi sư đến đây thực hành, sư có biết tại sao sư đến thực hành không?
T: - Tôi đến thực hành để thấy Danh - Sắc.
A: - Ðúng vậy. Do đó, sư không phải làm điều gì cả. Sư chỉ việc quán danh và sắc. Ví như có người đưa cho sư một "bạt" (baht - đơn vị tiền tệ Thái) và nhờ sư xem kỹ coi nó có đúng là tiền không. Ðối với Danh - Sắc cũng vậy. Sư nhìn vào nó để thấy xem nó có phải là "ta", hay là một con thú, tự ngã; hoặc Danh - Sắc mà sư lầm tưởng là tự ngã của mình. Nếu sư hiểu được điều này, lúc đó sư mới biết được lý do tại sao sư đến đây thực hành.
(Ngày khác. Vị sư thứ hai)
A: - Khi sư có phóng tâm, sư quán như thế nào?
T: - Tôi cảm thấy không thoải mái.
A: - Sư cảm thấy không thoải mái, bởi vì sư không muốn tâm sư có phóng tâm, phải không? Thực ra, danh phóng tâm cho thấy ba đặc tánh (tam tướng) rõ hơn bất kỳ danh nào khác, ngay cả với danh nghe và danh thấy cũng vậy. Phóng tâm là paramattha Nhưng sư không muốn thấy nó, đúng không?
T: - Ðúng vậy.
A: - Sư không thích cái gì là paramattha sao? Như vậy là không đúng. Sư thích sự an lạc. An lạc ấy, cũng giống như phóng tâm, nghĩa là phải sanh diệt vậy. Thế thì tại sao sư lại thích an lạc hơn phóng tâm?
Phóng tâm và định, dù đối nghịch nhau, nhưng có cùng hiệu quả là làm đối tượng (cho việc quán sát). Sư không thích phóng tâm bởi vì nó làm cho sư không được thoải mái, và vì sư thích cảm thọ lạc hơn.
Phóng tâm có phải là Thánh đế hay không?
T: - Phải, nó là Thánh đế (Ariyasacca).
A: - Thánh đế khởi lên, sư biết, nhưng lại không muốn thấy nó. Sư đến đây hành thiền minh sát để thấy Thánh đế, nhưng sư lại có cảm giác rằng sư không thích phóng tâm.
Khi ăn, sư phải biết lý do chánh đáng và lý do không chánh đáng của việc ăn. Lý do chánh đáng là để chữa khổ - không phải để vui thích. Người dạy thiền vipassanā phải biết thiền sinh của mình hành đúng hay sai. Chẳng hạn, khi một thiền sinh có quá nhiều định, có thể tạo ra một sự căng thẳng trên tâm, vị thầy lúc ấy phải bảo thiền sinh ngưng hành trong một lúc, làm một ít công việc gì đó để trở lại bình thường.
Tâm của người hành thiền rất quan trọng. Nếu người ấy hơi mất quân bình, họ sẽ rất dễ mất sự tiếp xúc với thực tại hoặc khổ do ảo giác. Do đó, khi một thiền sinh đến đây hành thiền, vị thầy phải yêu cầu họ cho biết là họ đã hành thiền ở đâu trước đây và có kinh nghiệm gì về những chướng ngại tinh thần không.
Nếu đối tượng nào khiến cho định sanh thái quá thì không nên dùng đối tượng ấy. Chẳng hạn, nếu oai nghi ngồi dẫn đến quá nhiều định, hãy đổi sang oai nghi khác một lát. Sư phải chọn một đối tượng mà sư ít quen thuộc nhất, bởi vì những đối tượng sư dùng quá quen (như sắc ngồi chẳng hạn) có khuynh hướng tạo ra định thái quá.
(Ngày khác. Một vị sư người Hoa)
A: - Việc thực hành của sư thế nào rồi?
T: - Khi thời tiết nóng bức nó làm cho tôi bị phóng tâm. Nhưng nếu trời mát, tôi lại không bị phóng tâm nhiều.
A: - Thời tiết có thể làm duyên cho phiền não. Tuy nhiên, trời nóng hay lạnh đều là sự thực. Sư có biết cái gì khiến cho sư phải khổ không? Bởi vì sư có ngũ uẩn, chính ngũ uẩn là cái gây ra khổ, chứ không phải thời tiết. Nếu sư yoniso (tác ý) chân chánh, sư sẽ hiểu được nóng chỉ là sắc (rūpa), và nóng là thực tại tuyệt đối (paramattha). Nếu như sư cố gắng làm cho cái nóng biến mất - đó là điều mà sư không thể làm được - sư sẽ cảm thấy khó chịu, vì sư đã tác ý không đúng. Sư nghĩ "sư" đang nóng, chứ không phải sắc nóng. Ðức Phật nói năm uẩn là khổ và vô ngã. Nếu sư biết điều đó, sư sẽ không cảm thấy khó chịu, và dĩ nhiên lúc ấy, thích và không thích không thể nào phát sanh được và cả phiền não cũng không xen vào được.
Thường thường, nếu sư không có sát-na hiện tại, phóng tâm sẽ nảy sanh, nhưng nếu sư biết đó là danh phóng tâm thì cái biết ấy là sát-na hiện tại, phóng tâm lúc đó sẽ dừng lại. Nhưng nếu sư quán để làm cho phóng tâm biến đi, thì điều đó không đúng. Sư phải biết là trong sát-na hiện tại vẫn có định (sát-na định hay thời khắc định), và đó là lý do tại sao phóng tâm không thể khởi lên. Tuy nhiên, nếu sư trú trong sát-na hiện tại chỉ được một chút thì sư sẽ có nhiều phóng tâm.
Tôi muốn sư lưu ý rằng tâm trú trong sát-na hiện tại và tâm không trú trong sát-na hiện tại khác nhau, và vì sao chúng khác nhau. Nếu sư biết khi nào thì tâm không trú trong sát-na hiện tại, lúc ấy sư có thể trở lại với sát-na hiện tại được liền.
Ðiều quan trọng là, khi phóng tâm khởi lên, đừng quên rằng đó là danh phóng tâm. Trong mọi oai nghi đều có sự phóng tâm này. Khi phóng tâm sanh trong lúc đi, với tâm tỉnh thức, sư hãy trở lại với sắc đi. Lúc này, sư chưa có nhiều kinh nghiệm, do đó sư phải hành cho đến khi có nhiều kinh nghiệm hơn. Mặc dù sư hiểu pháp hành, nhưng sư vẫn phải thực hành thường xuyên. Về các ấn chứng thì sao? Sư vẫn có những ấn chứng chứ?
T: - Không có ấn chứng. Nhưng tôi bị phóng tâm nhiều hơn.
A: - Sư có nhiều phóng tâm, bởi vì sư chỉ có một chút sát-na hiện tại. Nếu sư có sát-na hiện tại nhiều hơn, sư sẽ ít phóng tâm. Nếu sư phóng tâm nhiều quá, sư sẽ không có ấn chứng. Nếu sư có ấn chứng, sư sẽ không phóng tâm.
Như một đối tượng trong thiền minh sát (vipassanā kammaṭṭhāna), phóng tâm cũng có những lợi ích của nó, bởi vì nó là Pháp quán niệm xứ (Dhammānupassanā satipaṭṭhāna). Tuy nhiên, nó không phải là Thân quán niệm xứ (Kāyānupassanā satipaṭṭhāna) mà ở đây chúng ta đang hành. Nimitta (ấn chứng) không thể được sử dụng như một đối tượng trong thiền minh sát, mà nó chỉ có thể được dùng cho thiền chỉ (samattha). Do đó, cả hai có những lợi ích khác nhau.
T: - Khi phóng tâm phát sanh, tôi cố gắng kéo nó trở lại việc quán sắc ngồi, nhưng nó vẫn không chịu trở lại. Có lúc tôi bị phóng tâm rất lâu.
A: - Ðừng chiến đấu với phóng tâm như vậy - bởi vì phóng tâm là thực tánh pháp, và đây là chuyện tự nhiên. Sư không thể nào kiểm soát được nó. Sư có ý niệm sai lầm cho rằng phóng tâm không phải là pháp, vì thế sư mới không thích phóng tâm. Khi sư nhận ra phóng tâm, điều ấy có nghĩa là sư đã thấy pháp (Dhamma), và sư cũng biết luôn rằng phóng tâm là "Danh" chứ không phải "Sư".
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất)
T: - Hai ba ngày qua, tôi nghĩ là tôi đã quán Danh - Sắc tốt hơn.
A: - Sư nói là sư đã quán Danh - Sắc tốt hơn. Ðối tượng nào sư thường có trong sát-na hiện tại?
T: - Phóng tâm đã giảm, và tôi quán sắc hiều hơn danh. Không phải là suy nghĩ, mà tôi thực sự cảm nhận đó là sắc ngồi, sắc nằm. Khi tôi ở trong oai nghi nào, tôi biết đó chỉ là sắc. Cảm giác ấy khác với những gì trước đây.
A: - Ðây là sự thiện xảo. Vì thế, sư nên cố gắng và duy trì kinh nghiệm này. Chánh tinh tấn - pháp thứ hai trong Ba mươi bảy Trợ Ðạo Pháp (Bodhipakkhiyadhamma) - sẽ giúp cho sư đạt đến Tâm đạo (Maggacitta) và Tâm quả (Phalacitta), chứng ngộ Tứ Thánh Ðế. Nếu sư đang quán sắc ngồi và sắc nằm, có lúc nào đó chúng trở nên ít rõ hơn thì sư phải ngưng quán một lát. Sau đó mới bắt đầu quán trở lại.
T: - Ðôi lúc đang quán, có cái gì đó làm cho tôi cảm thấy sợ hãi. Thế là tôi không thể thấy Danh và Sắc rõ ràng nữa.
A: - Sư cảm thấy hoảng sợ hay sư cảm thấy sợ hãi, rồi sư không thể thấy Danh - Sắc một cách rõ ràng, là bởi vì sư có ít sự tỉnh thức. Vì vậy, hãy cố gắng có sự tỉnh thức thêm nữa, rồi sư sẽ ít sợ hãi. Nếu sư thấy Danh - Sắc rõ ràng với sự tỉnh thức trọn vẹn, sư sẽ không cảm thấy sợ hãi.
(Hai vị sư thứ nhất và thứ hai)
A: - Pháp hành của sư thế nào rồi?
T: - Trước đây, tôi hay phóng tâm, nhưng bây giờ tôi đã hiểu được pháp hành rõ hơn. Vì thế, tôi mơ đến việc đi dạy thiền cho những người bà con của tôi hay cho mọi người.
A: - Sư có phóng tâm bởi vì sư đã rơi khỏi sát-na hiện tại. Sư có biết tại sao sư rơi khỏi sát-na hiện tại không? Bởi vì sư đang nghĩ đến việc sẽ làm một thiện sự (kusala) nào đó, chẳng hạn như nói đạo hay dạy thiền... Và sư đã làm gì để cho phóng tâm biến mất?
T: - Phóng tâm tự nó biến mất, lúc đó, tôi đang quán sắc nằm.
A: - Nếu sư quán sắc ấy lâu hơn, sư sẽ thấy được thực tánh của sắc đó một cách rõ ràng. Nếu sư chỉ quán được một chút, sư cũng sẽ chỉ thấy được một chút sự thật của nó thôi vậy. Sư càng quán sắc được nhiều, sư sẽ càng thấy sắc nhiều hơn và rõ hơn. Song nếu sư quán quá lâu, nó sẽ khiến cho sư có ít tỉnh thức lại. Khi sư bị như vậy, sư ngưng lại một lát rồi bắt đầu khởi quán trở lại với nhiều tỉnh thức hơn.
T: - Ðôi khi đang quán sắc tôi lại cảm thấy như mình muốn khóc lên vậy.
A: - Sư có biết vì sao sư cảm nhận như vậy không? Sư phải biết lý do tại sao sư cảm thấy như vậy. Chẳng hạn, khi sư thấy một tử thi, sư có một cảm giác nào đó. Tương tự như vậy nếu sư thấy một người đẹp,... Sư phải cố gắng tìm hiểu xem tại sao cảm giác ấy khởi lên. Nhưng thường thì sư không biết tại sao. Giải pháp ở đây là sư phải có sự tỉnh thức thật rõ ràng, tức là tỉnh thức về những gì sư đang làm, biết lý do tại sao hành động (khóc) ấy xảy ra, và vì sao nó biến mất. Nó xuất hiện bởi vì đối tượng đã thay đổi từ sắc ngồi sang cái khóc, chẳng hạn, mà cái khóc ấy là buông khỏi sát-na hiện tại. Vậy lý do sư khóc chính là vì sư buông khỏi sát-na hiện tại. Cả hai vị đều có những vấn đề tương tự, nhưng cùng một nguyên nhân (yếu tỉnh thức). Quý sư đã thấy Danh - Sắc là không có thực thể (vô ngã), một người thì sợ, còn người kia thì muốn khóc. Tuy nhiên, việc thực hành của hai vị dù sao cũng đã tiến bộ hơn.
Pháp nào không Danh - Sắc là rỗng không. Khi sư thực hành, chính là để thấy pháp, đó không phải là ta, không phải ta ngồi. Cách chúng ta thực hành ở đây là để quán sắc ngồi,... nên nếu sư chỉ quán oai nghi ngồi mà không biết được cái gì đang ngồi, có nghĩa là sư đã không thấy được pháp, và không nhận ra pháp. Khi sư nhận ra pháp, điều đó có nghĩa là sư đã thấy cái gì là sắc, cái gì là danh. Có rất nhiều pháp, và chúng đều xuất phát từ danh và sắc. Nếu sư không quán Danh - Sắc, nghĩa là tâm sư không ở trong niệm xứ (satipaṭṭhāna).
T: - Tôi có thể ngăn ngừa tham ái không cho xen vào lúc đang hành bằng cách nào?
A: - Danh - Sắc không nảy sanh từ tham muốn. Danh - Sắc phải khởi lên một cách tự nhiên, không có sự sáng tạo của chúng ta. Thí dụ, khi cái nghe xảy ra, đó không phải là do ước muốn của chúng ta. Bởi thế, chúng ta dùng cái nghe ấy để làm cho tuệ nảy sanh. Tuệ ở đây chính là khi sư biết cái nghe đó là danh nghe. Trường hợp Danh - Sắc nảy sanh do ước muốn, tức là do sư cố tình làm cho nó hiện khởi, đó không phải là Danh - Sắc. Vì vậy, khi thay đổi oai nghi, sư phải biết lý do. Mặc dù sư không muốn thay đổi, sư cũng phải thay đổi, như vậy mới ngăn được tâm tham muốn. Khi không có phiền não, trí tuệ sẽ hiện ra.
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất)
A: - Kể từ buổi nói chuyện vừa rồi, pháp hành của sư tiến triển ra sao?
T: - Trong hai ba ngày liên tiếp tôi bị sốt và đau bao tử. Vì thế, việc thực hành của tôi không được liên tục.
A: - Sư có được khổ thọ nhiều hơn, nào là sốt, nào là đau bao tử,... Ðau bao tử có phải là pháp hay không?
T: - Ðó là khổ thọ.
A: - Sư đã biết cái gì là pháp, nhưng sư lại không có tác ý chân chánh để cho sư biết sắc là khổ, vì thế mà sư không thấy pháp. Pháp lúc nào cũng hiện khởi, pháp lúc nào cũng đang hiển bày đặc tính vô ngã, không kiểm soát được, bởi vì nó không phải là "Ta". Nếu nó là "Ta", chúng ta có thể kiểm soát và không phải bệnh hoạn. Có năm uẩn là phải có bệnh hoạn, nhưng nếu sư có tác ý đúng sư sẽ hiểu rằng mọi người ai cũng có thể mắc bệnh cả, ngay cả Ðức Phật. Ðức Phật đã tỏ ngộ pháp, chính là thấy ra năm uẩn phải chịu sanh, già, bệnh, chết, và từ điều này đã cho Ngài trí tuệ thấy Khổ, nhờ vậy, Ngài có thể đoạn tận nó.
(Sư thứ hai)
A: - Còn pháp hành của sư thì sao?
T: - Pháp hành của tôi đã khá hơn.
A: - Sư nói việc thực hành đã khá hơn, vậy sư có sợ bị vuột khỏi sát-na hiện tại không?
T: - Tôi không muốn bị mất sát-na hiện tại.
A: - Ðiều đó không đúng. Sợ bỏ mất sát-na hiện tại là không đúng. Cũng như muốn thấy danh và sắc hơn là không đúng. Sư phải làm sao có thái độ giống như người đang xem một vở kịch vậy - đừng cố gắng đạo diễn nó. Nếu như sư sợ buông khỏi sát-na hiện tại, phiền não là tự ngã sẽ xen vào, bởi vì sư nghĩ mình đang kiểm soát nó.
Pháp hành Trung đạo không phải là dễ dàng theo đuổi khi thực hành. Nếu pháp hành của sư không đúng, thích và ghét hay tham và sân sẽ phát sanh, sư sẽ không còn ở trong sát-na hiện tại, và trong tâm sư sẽ luôn luôn có phiền não. Khi sư ăn, sư phải ăn với trí tuệ - trí tuệ đó nhắc sư ăn là để chữa khổ, cái khổ đó tức là đói, và giữ cho thân thể được sống còn, nhờ đó sư có thể hành đạo để đoạn dứt khổ. Cho dù sư không muốn ăn, sư cũng phải ăn (bởi vì ở đây, vị ấy là một tỳ kheo chỉ ăn trước giờ ngọ).
Một phần rất quan trọng của pháp hành minh sát này là yoniso - tác ý chân chánh. Nếu sư có tác ý chân chánh là sư có trí tuệ. Sư đến đây hành thiền chỉ là để đoạn tận khổ. Nếu sư ăn với phiền não, là sư ăn để ở trong vòng luân hồi. Vì vậy, sư phải ăn để đoạn khổ, đi để đoạn khổ, ngồi để đoạn khổ, nằm để đoạn khổ - tất cả đều là để đoạn khổ. Chúng ta đã bị giam giữ trong gọng kìm của phiền não trong một thời gian quá lâu. Phiền não buộc chúng ta phải làm điều này điều nọ. Bất kỳ đối tượng nào nảy sanh đều luôn luôn có phiền não - "chúng ta" thấy, "chúng ta" nghe, "chúng ta" đói,... Bởi vậy, cho dù sư đến đây để hành thiền minh sát, sư cũng không thoát khỏi phiền não. Phiền não theo sư đi khắp mọi nơi. Chỉ khi sư có chân chánh tác ý, phiền não mới có thể được ngăn ngừa. Như vậy, phiền não sẽ muội lược khi chúng ta có tác ý chân chánh. Khi phiền não suy yếu, trí tuệ có thể rất mạnh, và tuệ ấy sẽ tiêu diệt phiền não. Do đó, khi làm bất luận điều gì, ngay cả việc thay đổi oai nghi, sư cũng phải biết nguyên nhân chiùnh đáng là để chữa khổ. Khi sư biết rõ nhân thường xuyên như vậy, cái biết ấy sẽ đưa đến trí tuệ minh sát.
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất)
A: - Việc thực hành của sư thế nào rồi?
T: - Lần này tôi không cảm thấy vui.
A: - Khi chánh niệm - tỉnh giác phát triển tốt hơn, chỉ có một chút phiền não xen vào và điều đó làm cho tâm không vui. Không vui là bằng chứng cho thấy pháp hành minh sát của sư đang tiến triển. Giống như cá trong nước, chúng cảm thấy vui khi sống trong nước, nhưng khi bị bỏ lên bờ, chúng sẽ khổ. Tâm con người cũng tựa như vậy. Khi tâm không có phiền não để che đậy khổ, nó sẽ không vui.
Sư nói rằng việc thực hành của sư khá hơn. Thế còn khổ thì sao? Sư vẫn có khổ chứ?
T: - Có, tôi luôn có thọ khổ trong mỗi oai nghi. Nhưng nó cũng không rõ lắm.
A: - Sư luôn luôn phải thay đổi oai nghi, nhưng vẫn không thấy khổ, bởi vì sư không thường xuyên quán sát. Mọi người đều biết khổ hiện hữu nhưng không phải lúc nào cũng thấy nó. Ðối với các oai nghi phụ, sư có quán chúng không?
T: - Có, thỉnh thoảng.
A: - Sư phải ghi nhận mỗi khi đưa tay lên, co tay lại và duỗi tay ra. Hoặc mỗi lúc đi tắm rửa, vệ sinh, sư cũng phải biết lý do tại sao sư làm điều này. Dĩ nhiên đây không phải là để chữa khổ trong các oai nghi, mà là để chữa các loại khổ khác - chẳng hạn như đói bụng, đau bụng,...
(Vị sư thứ hai)
A: - Còn sư thì thế nào? Pháp hành của sư ra sao rồi?
T: - Pháp hành của tôi tốt hơn trước.
A: - Tốt hơn, ý sư muốn nói gì?
T: - Nghĩa là tôi có thể theo dõi Danh - Sắc và nó rõ hơn trước đây.
A: - Sư muốn nói là sư ở trong sát-na hiện tại, sư có được nhiều sát-na hiện tại hơn, đúng không? Như vậy sư mới thấy được rằng việc thực hành vipassanā là rất khó. Có khi sư phải mất một thời gian dài, có thể là nhiều ngày để trú trong sát-na hiện tại, cho đến khi tâm giữ được mức trung đạo, không thích - ghét hay tham - sân nữa. Nếu sư hành thiền chỉ, sư phải quán một đối tượng duy nhất trong một thời gian rất lâu. Hơn nữa, đối tượng ấy lại nằm ngoài sư và thuộc về thực tại chế định (không phải Danh - Sắc). Tâm phải có một năng lực tập trung rất mạnh, nhưng hành vipassanā và trú được ở trong sát-na hiện tại mà không có phiền não là điều không phải dễ. Phiền não chi phối chúng ta quá mạnh, đến độ chúng ta chẳng khác gì món dưa cải quá chua vì bị ngâm lâu ngày. Do đó, ngăn phiền não không cho xen vào các cảm giác không phải là chuyện dễ. Sư phải hiểu và có yoniso chân chánh. Tôi muốn sư lưu ý đến lý do sư có được cảm giác này (tức cảm giác trú trong sát-na hiện tại), và làm thế nào sư có thể giữ cho tâm không có phiền não. Nếu sư biết điều này, lúc đó sư mới có thể ngăn được phiền não và trú trong sát-na hiện tại lâu hơn. Cuối cùng, sư sẽ đoạn tận được khổ.
Vào thời Ðức Phật, Ngài dạy Pháp, chư Tăng lắng nghe, hiểu được lý do Ngài thuyết kinh, và họ có thể hướng tâm mình đúng cách. Khi Ðức Phật dứt thời Pháp, các vị cũng giác ngộ - họ hiểu những điều Ngài nói.
Hành thiền minh sát rất khó. Thoạt tiên, khi mới giác ngộ, Ðức Phật cảm thấy ngại ngùng không muốn thuyết giảng những gì mình biết cho ai cả, bởi vì nó quá khó. Có thể nói là khó hơn bất kỳ một công việc nào khác. Tất cả chúng ta đều nằm trong gọng kềm siết chặt của si mê; mọi chuyện chúng ta làm, tà kiến chấp đó là "chúng ta làm" đã chi phối. Sư si mê đó là tà kiến chấp rằng Danh - Sắc là "Ta" hay "Tự ngã của ta".
Sư đến đây thực hành gần ba tháng, sư hiểu pháp hành rõ hơn. Ðiều đó có nghĩa là sư đã biết làm thế nào để tu tập tâm đúng pháp. Tuy nhiên, cũng có lúc sư lạc ra khỏi con đường chân chánh ấy.
T: - Vâng, đôi khi tâm tôi đi sai hướng.
A: - Sư phải thận trong. Ðừng bao giờ để cho tâm sư trở thành trợ duyên cho phiền não và làm suy yếu trí tuệ. Chánh niệm - tỉnh giác của sư không được mạnh lắm. Khi sư quán, chánh niệm - tỉnh giác hoạt động yếu, và khi mà sự tỉnh thức yếu như vậy, định có thể xen vào và làm cho sự tỉnh thức càng yếu thêm. Khi phiền não xen vào, sư có kịp nhận ra nó không?
T: - Có.
A: - Khi phiền não không có mặt, trí tuệ có thể nhận ra chân lý. Ðừng chú ý đến tuệ. Phận sự của sư chỉ là ngăn không cho phiền não xen vào. Tóm lại, sư chỉ có phận sự nghiên cứu để hiểu rõ pháp hành và có yoniso chân chánh để ngăn chặn phiền não. Tuy nhiên, dù cho tuệ có nảy sanh hay không, đó không phải là phận sự của sư. Ðiều nên nhớ là phải luôn luôn tỉnh thức đối với danh hay sắc nào mà sư đang quán.
(Ngày khác. Vị sư thứ nhất)
A: - Sư đã thấy Pháp chưa?
T: - Có, tôi đã thấy Pháp.
A: - Sư thấy Pháp gì?
T: - Tôi thấy thọ khổ.
A: - Khi phóng tâm khởi lên, sư có biết đó là pháp không?
T: - Có, phóng tâm là pháp.
A: - Pháp hiện khởi suốt ngày suốt đêm. Nếu sư biết pháp, sư sẽ thấy pháp cả ngày lẫn đêm vậy. Song nếu sư muốn đi tìm pháp, sư không thể nào thấy nó được, bởi vì phiền não - tham muốn thấy pháp - đã che án trí tuệ. Nếu sư không muốn thấy nó, sư có thể sẽ thấy nó. Muốn thấy pháp, sư phải trú trong sát-na hiện tại. Pháp hiện hữu trong từng khoảnh khắc, trong từng hơi thở. Sư nói rằng sư đã thấy khổ thọ. Ýù sư muốn nói gì khi cho rằng thọ khổ là pháp?
T: - Tôi muốn nói thọ khổ là Danh (nāma)
(Trong Tứ Niệm Xứ, Thọ (vedanā) nằm trong Danh pháp niệm xứ. Tuy nhiên, trong pháp hành, chúng ta thấy khổ ở sắc để chứng minh rằng bốn oai nghi đều che án khổ) .
A: - Danh - Sắc mà sư đã thấy đó, có rõ rệt không?
T: - Có lúc rất rõ.
A: - Sắc rõ hơn hay danh rõ hơn?
T: - Danh phóng tâm rõ hơn. Tứ oai nghi (sắc) đôi khi cũng rõ.
A: - Sắc nào sư thấy rõ nhất?
T: - Sắc ngồi và sắc đi.
A: - Sư có quán danh thấy, danh nghe không?
T: - Không.
A: - Vì sao sư không quán danh nghe? Khi tiếng ồn xảy ra, sư có khó chịu không?
T: - Không, nhưng trước đây tôi rất khó chịu.
A: - Khi sư nghe, có phải là nghe với paññatti (sự thực chế định) không? Tức là sư nghe âm thanh và liên tưởng tới âm thanh đó?
T: - Có khi như vậy.
A: - Sư nghe với sự thực chế định, sư có biết nó hay không?
T: - Ðôi lúc tôi biết câu chuyện (liên tưởng tới âm thanh thay vì danh nghe).
A: - Khi paññatti xen vào, sư có biết tại sao nó xen vào không? Bởi vì sư không quán danh nghe. Nếu paññatti có mặt, sư sẽ mất sát-na hiện tại. Paññatti là pháp không có tam tướng. Sư cảm thấy thế nào về pháp hành của mình? Có khá hơn không?
T: - Có, pháp hành của tôi đã khá hơn.
A: - Sư có còn ưa - ghét không?
T: - Có, nhưng thỉnh thoảng thôi.
A: - Căn nào sư không thích?
T: - Nhĩ căn.
A: - Sư không thích tiếng ồn lớn? Sư không thể quán sát nó sao?
T: - Tôi có quán nhưng không theo dõi kịp nó. Tôi chỉ biết bằng paññatti (chế định).
A: - Thực ra, sư có thể quán với hết khả năng của mình, bao lâu mà chánh niệm tỉnh giác của sư còn có thể duy trì. Sư muốn một đối tượng khác (ngoài danh nghe), bởi thế nên khi có tiếng ồn lớn phát sanh, sư cảm thấy khó chịu.
T: - Trong tứ oai nghi, đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu. Chẳng hạn, khi đang nằm, tôi trở người qua bên khác và quên không yoniso. Ðiều này khiến tôi khó chịu.
A: - Sư cảm thấy khó chịu bởi vì sư phải thay đổi oai nghi nằm thường xuyên, do đó thọ khổ mới trở thành duyên cho sân tâm. Nếu sư có tác ý chân chánh, sư sẽ không bị khó chịu.
T: - Ðôi khi tôi cảm thấy chán nản, không hiểu vì sao.
A: - Có hai loại chán nản, một loại do sân và một loại do tuệ (paññā). Sân đưa đến chán nản bởi vì sư thực hành đã lâu mà vẫn chưa thấy sắc không phải là sư. Còn tuệ đưa đến chán nản bởi vì sư thấy Danh - Sắc là không có thực thể - vô thường, khổ, vô ngã. Ðôi lúc sư đang quán phóng tâm và sư biết đó là danh phóng tâm, rồi phóng tâm trở lại và sư lập lại "danh phóng tâm" nữa, nó cứ trở đi trở lại như vậy. Cũng giống như cố gắng bảo đứa trẻ phải làm gì nhưng nó không tin ta, phóng tâm cũng vậy. Sư không kiểm soát được nó, và biết được điều này sẽ đem lại trí tuệ.
(Sư thứ hai)
T: - Mới đầu, khi đến đây thực hành, tôi hiểu được pháp hành và có rất nhiều hy vọng cũng như dự định (cho tương lai), nhưng giờ đây, tôi cảm thấy thất bại.
A: - Dự định gì?
T: - Tôi nghĩ mình sẽ viết một cuốn sách dạy thiền minh sát, thuyết giảng cho mọi người biết về pháp hành đúng đắn này v.v...
A: - Nghĩ đến việc thuyết giảng và không nghĩ đến nó - cái nào tốt hơn?
T: - Không nghĩ là tốt hơn.
A: - Cách sư nghĩ như thế là đã không đúng với tinh thần Tứ Niệm Xứ rồi. Tâm sư không ở trong đối tượng thực sự của Niệm Xứ - mặc dù những dự định của sư là thiện. Phóng tâm là phiền não - nó đưa sư ra khỏi sát-na hiện tại. Sư có cảm thấy chán đối với pháp hành minh sát này không?
T: - Tuần rồi tôi cảm thấy mất hết hy vọng. Nhưng giờ đây tôi không cảm thấy gì hết. Và đôi lúc tôi cảm thấy thất vọng.
A: - Sư thất vọng về điều gì?
T: - Tôi thất vọng về việc thực hành của mình. Vipassanā quá khó.
A: - Sư cảm thấy thất vọng, bởi vì sư không hiểu rõ pháp hành. Nhưng điều đó không nằm ngoài khả năng của sư. Ðó là lý do vì sao Ðức Phật phải trau dồi các pháp ba-la-mật (pāramī) trong nhiều kiếp sống. Pháp hành quả thực rất khó, bởi thế nó mới được xem là đặc biệt. Cho dù sư không đạt đến giác ngộ trong kiếp này, sư cũng sẽ tạo duyên (những trợ duyên làm phát sanh trí tuệ) cho kiếp kế. Ngay cả một vấn đề thuộc lĩnh vực thế học, được xem là dễ hơn vipassanā, sư cũng phải nghiên cứu suốt nhiều năm. Cho nên, sư phải tiếp tục thực hành. Dù không đạt được những gì sư mong muốn, sư cũng sẽ trau dồi được ba-la-mật. Ðó là phận sự (dhura) của sư - một vị tỳ kheo - phận sự hành thiền minh sát. Ðức Phật đã bỏ hết mọi thứ để có Trí tuệ giác ngộ (Bodhi-ñāṇa), và khi giác ngộ rồi, Ngài dạy lại cho chúng ta. Ngài phải khó khăn lắm mới đạt đến sự giác ngộ. Còn chúng ta không đến nỗi vất vả như vậy bởi vì Ngài đã dạy hết những gì cần thiết cho chúng ta rồi. Chúng ta chỉ việc đi theo pháp hành của Ngài. Khi sư thực hành, sư sẽ có được những lợi ích của Giới - Ðịnh - Tuệ. Khi sư ở đây, sư bị phóng tâm. Song điều đó không mất mát gì, vì khi ở nhà sư cũng vậy. Nhưng nếu ở nhà, sư sẽ không có Giới - Ðịnh - Tuệ trong Bát Chánh Ðạo mà sư đạt được do thực hành, dù chỉ là chút ít. Sư có thể thấy Pháp hay không, điều đó không quan trọng - hãy xem việc thực hành là để kiến tạo ba-la-mật cho bản thân sư là đủ. Sư nói việc thực hành minh sát quá khó. Ðúng thế. Cái khó sẽ làm cho sư phải có sự nhiệt tâm hơn nữa.
Ðức Phật nói rằng, muốn cho hành giả hiểu đúng pháp hành, cần phải có một vị Thầy thông hiểu pháp hành, đã thấy thực tánh pháp (sabhāva dhamma) và dạy đúng cách. Ðồng thời người hành thiền cũng phải có khả năng tiếp thu những gì vị thầy dạy nữa. Việc thực hành giúp sư hiểu được những lời Ðức Phật dạy và biết thực tánh pháp thấu đáo hơn.
(Ngày khác. Vị sư người Hoa)
A: - Pháp hành của sư ra sao rồi?
T: - Tôi đang cố gắng đưa tâm mình vào Trung Ðạo.
A: - Sư làm điều đó như thế nào?
T: - Khi tâm sân hay không thích khởi lên, tôi cố gắng thấy địa đại.
A: - Sư thấy địa đại? Sư thấy bằng cách nào và thấy để làm gì?
T: - Tôi chỉ cần nghĩ "địa đại, địa đại,..." và sân biến mất.
A: - Nếu sư suy nghĩ, sư sẽ mất sát-na hiện tại. Chẳng hạn, khi cái nghe nảy sanh, chánh niệm - tỉnh giác quán đó là danh đang nghe, nhờ vậy, ưa - ghét không thể xảy ra. Do đó, tâm sư tự động ở trong Trung Ðạo. Sư không cần phải làm một điều gì khác cả.
T: - Có lúc tôi cảm thấy tâm mình rất trong sáng, nhưng tại sao tôi không biết gì cả - tôi chỉ thấy một bộ xương.
A: - Sư cảm giác như thế nào về hiện tượng này?
T: - Tôi kinh ngạc không biết tại sao bộ xương lại giống như thế này, và sau một lát, tâm biến thành một chiếc quan tài. Rồi một xác chết thối rữa. Sau đó tôi ngửi thấy mùi hôi và ói mửa.
A: - Sư có biết cách sư hành như vậy là không đúng không?
T: - Tôi không biết tại sao tôi bị như vậy.
A: - Sư ói bao lâu?
T: - Khoảng nửa buổi. Sau bữa ăn trưa cho đến 6 giờ chiều.
A: - Suốt thời gian ấy, sư vẫn ngửi thấy mùi hôi à?
T: - Vâng.
A: - Cái sư thấy có phải là thực hay không? Ðó là ấn chứng (nimitta). Năng lực định làm cho sư thấy hiện tượng này. Nimitta là Dhamma (Pháp). Nó phát sanh do định thái quá. Hiện tượng này khiến cho sư có thể có những lầm lẫn trong tâm. Nó sẽ đưa sư ra khỏi thực tại. Khi sư dứt ói, sư có thấy rằng hiện tượng đó là không đúng không?
T: - Tôi biết điều này là vô ích.
A: - Sư đã hành thiền minh sát trong nhiều ngày. Sư không nên để cho tâm mình rơi vào những trường hợp này nữa. Sư làm cách nào khiến cho xác chết (nimitta) ấy biến đi?
T: - Nó tự biến. Nó kéo dài một lúc rồi tự mất đi.
A: - Ðịnh có năng lực mạnh hơn tâm, nó có thể đưa sư ra khỏi pháp hành minh sát.
T: - Vâng, đúng vậy. Tôi không muốn có định.
A: - Khi hành thiền định, dù sư có nhiệt tâm cách mấy, sư cũng rất khó đắc định. Nhưng nếu sư hành thiền minh sát, định sẽ lẻn vào và làm cho sư mất tuệ minh sát. Sư có muốn thấy nimitta đó lại không?
T: - Không, mùi nó hôi lắm. Tuy nhiên tôi cũng không biết tại sao mình lại thấy nó. Tâm tôi rất trong sáng mà.
A: - Tâm sư rất trong sáng, đó là định. Ðịnh làm cho sư cảm thấy thỏa mãn, làm cho sư cảm thấy lạc. Ðó là điên đảo tưởng (vipallāsa). Nếu tâm trong sáng và không có phiền não, tham và sân không thể hiện khởi.
(Vị sư thứ nhất và thứ hai)
A: - Sư có một số khách đến thăm thường xuyên quá. Trong thời gian này, sư không nên để cho nhiều người đến thăm sư như vậy, bởi vì sự viếng thăm của họ sẽ làm suy yếu lục căn thu thúc giới (indriyasamvarasīla) của sư. Nếu lục căn thu thúc giới không hoàn mãn, định không thể phát sanh; và không có định, dĩ nhiên tuệ không thể sanh. Tất cả ba yếu tố này phải khởi sanh cùng nhau trong sát-na hiện tại. Nếu có khách, dù sư không muốn nói, sư cũng phải nói.
Cách thực hành là sư phải quán Danh - Sắc nào khởi lên vào lúc đó. Nếu Danh - Sắc không khởi, tà kiến cho rằng đó là "Ta" vẫn còn, và sư không thể tách tà kiến cho đó là "Ta" ra khỏi.
Thương và ghét khởi lên và diệt. Nhưng sư không biết cái gì thương, cái gì ghét cả. Thương là danh hợp với tham; ghét là danh phối hợp với sân. Nếu sư không biết, sư sẽ nghĩ là "sư thương", "sư ghét", thế là sư không thể tách "sư" ra khỏi cái thương ghét ấy được. Vì vậy, khi sư thực hành, sư phải luôn luôn thấy mọi thứ chỉ là danh hoặc sắc; và sư cũng phải biết đó là danh gì, sắc gì, chẳng hạn như sắc ngồi, danh nghe,... Sư nói rằng sư đã thấy khổ, điều đó đúng. Nhưng tà kiến nghĩ rằng "Sư" cảm thấy khổ vẫn hiện hữu. Sư biết tại sao không? Bởi vì sư không yoniso (tác ý chân chánh). Sư phải thấy rằng sắc ngồi khổ, chứ không phải sư. Sư không quán sắc đúng, bởi vì sư đã quên đi điều quan trọng này (yoniso).
Cảm nhận và suy nghĩ khác nhau. Sư đã biết điều này. Do vậy, đừng lầm lẫn chúng.
Ðiều quan trọng là sư phải biết rõ lý do. Sư phải làm điều này với tác ý chân chánh. Chẳng hạn, trong kinh Anuruddha (Anuruddha-sutta), Ngài A-nậu-lâu-đà (Anuruddha) hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) lý do tại sao, mặc dù vị ấy có thiên nhãn có thể thấy được tất cả vũ trụ, có nhiệt tâm tinh tấn, có chánh niệm vững chắc, nhưng vẫn không thể doạn trừ được các lậu hoặc. Ngài Xá-lợi-phất giải thích rằng, cách thấy tất cả vũ trụ của Anuruddha ấy là mạn (maṇa) và mạn này là đối tượng của phiền não, do vậy phiền não có thể xen vào. Cách nghĩ rằng ta nhiệt tâm tinh tấn và chánh niệm vững chắc, là trạo cử (uddhacca). Và cách vị ấy quan tâm đến việc chưa đoạn trừ được các lậu hoặc như vậy là hối quá (kukkucca). Vì thế, Ngài Xá-lợi-phất mới bảo vị ấy cần phải loại bỏ những cảm giác này.
Phiền não vi tế như vậy đấy. Sư phải có yonisomanasikāra (tác ý chân chánh) mới có thể thấy được. Vì thế, phận sự của sư là thực hành liên tục. Dù sư có thành công hay không, điều ấy không quan trọng. Sư đến đây thực hành là để tiêu diệt những gì che án sự thực (chân lý). Ngay như Ngài Anuruddha với thắng trí như vậy mà vẫn còn phiền não nữa huống chi chúng ta. Ngày nay chúng ta được may mắn hơn, bởi vì không phải hành thiền định trước hoặc phải đạt đến các thắng trí trước khi hành minh sát. Chúng ta có thể lấy tham, sân, si làm đối tượng để hành vipassanā (cittanupassanā: - niệm tâm). Nếu sư phải hành thiền định trước, ắt hẳn rất khó, bởi vì sư phải hành qua hai giai đoạn (chứng thiền trước, rồi mới chuyển sang vipassanā), như vậy phải tốn nhiều thời gian. Bây giờ sư có thể hành chỉ một giai đoạn thôi mà vẫn loại trừ được phiền não.
(Vị sư người Hoa)
A: - Sư có hiểu sự khác nhau giữa đối tượng thiền định và thiền minh sát không? Chúng khác hay giống?
T: - Khác. Các đối tượng không giống nhau.
A: - Tại sao chúng không giống nhau? Sư nghĩ đối tượng của thiền minh sát và đối tượng của thiền định khác nhau như thế nào?
T: - Thiền định làm cho tâm vắng lặng.
A: - Ðiều đó không quan trọng. Cái quan trọng là những đối tượng mà sư quán, chúng giống hay khác, vậy thôi?
T: - Tôi không quán như vậy.
A: - Sư không quán như thế à? Thế sư làm như thế nào? Chỉ và quán không giống nhau. Thiền minh sát phải lấy Danh - Sắc làm đối tượng. Nó không giống như sư niệm "Buddho" (Phật) hay "Arahant" (A-la-hán) liên tục đâu.
T: - Tôi hiểu rồi. Hành vipassanā không niệm thầm mãi như thế.
A: - Nếu sư niệm như vậy, sư sẽ không có cơ hội thấy được thực tánh, bởi vì niệm ấy không lấy Danh - Sắc làm đối tượng. Thiền minh sát phải lấy một điều gì đó thực sự hiện hữu làm đối tượng, để thấy thực tánh của nó.
T: - Khi tôi quán sắc ngồi, sắc nằm, tâm cứ phóng đi rồi trở lại rất nhanh. Nó không chịu trú trên sắc ngồi hay sắc nằm ấy.
A: - Khi điều đó xảy ra, sư có cảm nhận được đó là pháp hành sai không?
T: - Có.
A: - Sư nghĩ pháp hành sai bởi vì sư không muốn tâm sư phóng tới phóng lui à?
T: - Vâng. Khi tôi quán, tâm cứ đi lối này, lối nọ. Tôi cố gắng kéo nó trở lại với sắc ngồi, sắc nằm, nhưng nó vẫn không ở yên. Nó đi đi về về rất nhanh.
A: - Tại sao sư phải kéo nó lại?
T: - Nếu tôi không kéo lại, nó sẽ phóng đi rất lâu.
A: - Sư muốn trở thành người kiểm soát để kéo tâm lại, không cho nó đi tới đi lui sao? Cách sư cố giữ tâm không cho nó phóng đi như vậy là sai, và pháp hành của sư cũng sai nốt. Sư phải biết phóng tâm là một sự thực, đó là thực tánh pháp. Bởi vì tâm luôn luôn phóng tới phóng lui rất lẹ. Sư muốn ở yên một chỗ, nhưng nó không nằm trong quyền kiểm soát của sư. Ðây là thực tánh của tâm. Không người nào có thể kiểm soát được tâm cả. Nó không nằm trong quyền hạn của bất cứ ai, bởi vì nó vô ngã.
Phóng tâm là pháp, thế nhưng sư lại không thích pháp. Sư đến đây để thực hành nhưng khi pháp hiện khởi, sư lại không thích nó. Sư đã thấy pháp nhưng sư không thích pháp. Sư chỉ việc quán cái tâm ấy phóng đi phóng về là đủ. Ðừng cố gắng kiểm soát nó hay muốn nó ở yên một chỗ, chỉ việc quán nó. Tuy nhiên, sư phải biết rằng phóng tâm là danh. Nếu sư không biết rằng đó là danh phóng tâm, sư sẽ ghét nó.
Mọi người đều cần phải có lục căn thu thúc giới (indriya-samvara-sīla). Cũng như trồng một cái cây, sư phải dọn sạch cỏ, nếu không, cỏ mọc sẽ không cho cây con phát triển. Giới thu thúc lục căn cũng như làm đất trước khi trồng vậy, nó sẽ giúp sư thực hành tốt hơn. Nói chuyện khiến cho sư không thu thúc lục căn được. Khi thực hành minh sát, nếu sư nói chuyện, nó sẽ đưa sư ra khỏi sát-na hiện tại.
(Một ngày khác. Nữ cư sĩ.)
A: - Cô đã hành được gần một tháng rồi. Pháp hành của cô tiến triển ra sao? Mấy ngày nữa thì cô về?
T: - Vài hôm nữa, khoảng cuối tháng, thưa thiền sư.
A: - Như vậy là cô không thể ở lại lâu hơn được nữa sao?
T: - Thưa không, con phải trở về nhà.
A: - Nếu thế thì cô không thể ở lại được rồi. Kể từ buổi nói chuyện vừa rồi, pháp hành của cô ra sao?
T: - Hôm qua, con thấy mọi thứ đều là khổ.
A: - Cô đã thấy cái khổ gì?
T: - Khi con quán sắc nằm, sắc đó trông giống như một người chết vậy. Con rất sợ. Vì thế, con đi ra ngoài một lát rồi vào ngồi lại. Con thấy mọi thứ là khổ. Ngay cả nháy mắt, nuốt nước miếng, con cũng cảm thấy khổ. Thế là con lại đi ra ngoài nữa. Giờ thì con đã hiểu pháp hành, vì thế con muốn đi đến một nơi khác để hành tiếp. Con không muốn nương nhờ ai dạy nữa. Con nghĩ mình thật may mắn biết bao khi gặp được Achaan, vì nhờ Achaan mà con đã thấy Pháp. Nghĩ vậy nên con khóc.
A: - Còn hôm nay thì sao? Cô có thấy khổ như hôm qua không?
T: - Hôm nay thì bình thường. Khổ đó đã biến mất rồi.
A: - Cô có biết tại sao khổ ấy biến mất không?
T: - Hồi chiều, con có khách đến thăm, chúng con nói chuyện với nhau về khổ mà con đã thấy và về pháp hành này.
A: - Ðiều này dẫn đến phóng tâm. Phóng tâm khiến cho cô không quán được Danh - Sắc nữa. Cô đã buông mất vipassanā. Hôm nay cô cảm thấy bình thường bởi vì cô thiếu sự tỉnh thức. Khổ mà cô thấy đã mất dấu. Ðiều này là do cô thiếu sự tỉnh thức và không có Danh - Sắc làm đối tượng. Cô biết như thế là hành sai không?
T: - Thưa, có.
(Vị sư thứ nhất)
A: - Sư nói rằng pháp hành của sư đã khá hơn, khá hơn như thế nào?
T: - Tôi không bị phóng tâm nhiều nữa, và có thể theo dõi sát-na hiện tại.
A: - Sát-na hiện tại là gì?
T: - Danh phóng là sát-na hiện tại. Còn "câu chuyện" phóng tâm ấy là thực tại chế định (paññatti).
A: - Nếu sư biết "câu chuyện" - câu chuyện phóng tâm đó - sư sẽ mất sát-na hiện tại. Nếu sư phóng tâm thường xuyên, sát-na hiện tại sẽ không liên tục, sư không thể quán Danh - Sắc khi nó hiện khởi. Vì thế, sư nên cố gắng để có được sát-na hiện tại nhiều hơn nữa. Song, cũng đừng nên sợ mất sát-na hiện tại. Cũng giống như việc đi qua một con suối trên một cây tre, nếu sư cảm thấy sợ, sư có thể mất thăng bằng và rơi xuống.
Phần đông mọi người, từ khi sanh ra đến giờ, chưa từng thấy sát-na hiện tại. Bởi vì tâm họ luôn luôn tìm phiền não làm đối tượng. Tâm thấy mọi thứ thông qua tự ngã. Khi thực hành, sư phải ngăn chặn phiền não thì mới có thể thấy được sát-na hiện tại.
(Sư thứ hai)
A: - Khi sư thực hành tiến bộ hơn, sư có cảm thấy "thích" không? Khi sư hành không tiến, sư có cảm thấy "không thích" không? Cảm giác như vậy là sai. Sư nói pháp hành của sư đã tiến bộ hơn, nó tiến bộ như thế rồi?
T: - Tôi có thể theo dõi sát-na hiện tại dễ hơn trước.
A: - Sư phải biết lý do tại sao có ngày sư lại theo dõi sát-na hiện tại được, và tại sao có ngày không. Sư phải tìm ra nguyên nhân của nó. Nếu không, việc thực hành của sư sẽ phải mất một thời gian rất lâu. Nếu sư biết được nguyên nhân, cho dù sư buông khỏi sát-na hiện tại, sư cũng sẽ trở lại dễ dàng. Sư phải cố gắng ghi nhớ điều này. Sư cũng nên quán các oai nghi phụ nữa. Có bảy nhóm oai nghi phụ là: -
Oai nghi phụ có nhiều hơn oai nghi chính, do đó biết được nhân sanh của chúng khó hơn là thấy bốn oai nghi chính. Khi sư thực hành lâu ngày, đủ để hiểu rõ bốn oai nghi chính rồi, lúc đó mới nên thêm vào các oai nghi phụ.Bước lui.
Xoay đầu sang trái hoặc phải.
Co tay, duỗi tay.
Mặc y vai trái (cīvara), y tăng-già-lê (sanghati) và mang bát.
Ăn, uống, nhai, liếm (các ngón tay).
Ði đại và tiểu tiện.
Ði, đứng, nằm, ngồi (để làm các công việc), ngủ, thức, nói,...
Dhamma (Pháp) không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải tự ngã - nó là sự thực (chân lý). Tất cả mọi thứ hiện khởi đều là Dhamma. Chẳng hạn, ngồi, đứng, phóng tâm, buồn ngủ, nghe, sân hận, thoải mái, đau nhức, mong muốn, tham lam, v.v... Những gì thuộc về danh hay sắc đều là pháp cả - và mọi thứ đều là danh và sắc. Mọi thứ khởi lên đều có thể dẫn đến trí tuệ thực hành. Nếu sư không hiểu điều này, tâm sư sẽ đi tìm pháp nào khác ở bên ngoài sư. Pháp không phải tìm ở nơi nào khác, pháp ở ngay trong chính bản thân sư. Sư phải quán Danh - Sắc nào hiện khởi vào lúc đó, dù sư đang đi đại, tiểu tiện hay tắm rửa,... Tất cả những cái đó đều là pháp. Và pháp đó là để chữa khổ.
Nếu sư không ở trong sát-na hiện tại, phiền não sẽ xen vào.
Không có pháp nào nằm trong quyền kiểm soát của bất cứ ai, bởi nó là vô ngã (anatta). Do đó, sư phải có tác ý chân chánh thì sư mới thấy được pháp. Ngay như phóng tâm, nếu sư biết nó là danh phóng tâm - sư sẽ thấy phóng tâm nằm ngoài sự kiểm soát của sư. Phóng tâm là vô thường, phóng tâm là khổ đế (dukkhasacca), phóng tâm là Thánh đế (Ariyasacca).
(Phần thẩm vấn ghi băng này phần lớn rút ra từ những cuộc gặp riêng các vị sư hoặc cư sĩ đến hành thiền tại Thiền Viện Boonkanjanaram).
Tác giả: Achaan Naeb Mahàniranonda
Thiền viện Boonkanjanaram
Dịch giả: Pháp Thông