NGƯỜI KHẤT THỰC
  • Hotline: 0987 005 4**
  • Thiền sư Kim Triệu
  • Ajahn Chah
  • Here & Now
  • Sitemap
Here & Now - Phật Pháp, Đạo Phật - CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
  • Nhóm Pháp Âm
  • Label tag 2
  • Label tag 3
  • Label tag 4
  • Trích đoạn Phật giáo
  • Pháp ngữ
  • Hỏi đáp Phật Pháp
  • Thiền Phật giáo
BLOG ĐẠO PHẬT
  • Khippapañño
  • Here & Now
  • Ajahn Chah
  • Groups PHÁP ÂM
  • Admin
  • Tổng các bài đăng

Liên hệ quảng cáo
Fanpage Here & Now



  • Trang chủ
  • Minh Đức Triều Tâm Ảnh
  • Sư Giới Đức
  • THƠ
  • VĂN

NGƯỜI KHẤT THỰC

Bởi Cittasamādhi JS vào 12 thg 2, 2017
Chia sẻ
  • Sao chép liên kết
  • Chia sẻ với Facebook
  • Chia sẻ với X
  • Chia sẻ với Pinterest
  • Email
  • Chia sẻ với Linkedin
  • Gửi bài qua Email

gửi email cho tác giả




    Mình là tu sĩ tầm thường
    Xin cơm bánh trái mười phương phố, làng
    Có gì hãnh diện, khoe khoang?
    Lấy gì kênh kiệu, vênh vang với đời?


    Xin ăn từng vá ơn người
    Trú an hơi thở chẳng rời bước chân
    Xả ly từng niệm tham sân
    Thong dong y bát nẻo gần, lối xa


    Thuở xưa, Phật cũng vậy mà
    Trang nghiêm thân giáo, nhà nhà hóa duyên
    Cho tín tâm nở chợ triền
    Để không hổ thẹn phước điền nhân gian
    Khởi tâm từ ái dịu dàng
    Giữ tâm bình đẳng, hèn sang, giàu nghèo
    Phủi buông bãn ngã buộc đeo
    Nhẹ như mây trắng, truông đèo thênh thang
    Chiếc y là mảnh trăng vàng
    Rạng ngời chánh pháp, đạo tràng sa-môn
    Chút thanh khiết, chút tâm hồn
    Nếp xưa, hạnh cũ, thiền môn giữ gìn!

    Mỗi lần ôm bát đi trì bình khất thực tôi lại tưởng nhớ đến tôn giả Mahā Kassapa (Đại Ca Diếp) và tôn giảSubhūti (Tu-bồ-đề). Vị tôn giả “đệ nhất đầu-đà” Đại Ca Diếp chỉ đi bát ở nơi xóm nhà nghèo nàn để độ cho những người cùng cực đói khổ nhất. Vị tôn giả “đệ nhất chư thiên ái kính” Tu-bồ-đề thì chỉ đi bát nơi những gia đình trung lưu hoặc giàu có. Cả hai trường hợp có vẻ “không bình đẳng” này hẵng là phải có nhân duyên chứ?
    Tôn giả Mahā Kassapa là con trai độc nhất của một gia tộc cự phú mà gia sản kim ngân không thua kémtrưởng giả Cấp Cô Độc bao nhiêu. Trước khi xuất gia, chàng trai cùng người vợ thủ ước sống như vợ chồng nhưng giữ gìn phạm hạnh này - phải mất ba ngày mới bố thí hết gia sản, không giữ lại gì cho mình, rồi ra đi sống đời không nhà cửa lang thang tìm đạo. Sau khi gặp đức Phật, được ngài giác ngộ, tôn giảchọn nếp sống với 13 pháp đầu-đà khổ hạnh. Trên đường du phương hoằng pháp, tôn giả quan sát thấy rõ những kẻ cùng cực đói khổ trên đời này đều là do nhân nhiều đời kiếp với tâm keo kiệt bủn xỉn, chưa hề biết cho đi, san sẻ cho ai, giúp đỡ cho người vật dù một xu một cắc hay muỗng cháo, vá cơm. Hãy tạo duyên lành cho họ có cơ hội mở rộng tấm lòng, bố thí cúng dường cái gì đó để kiếp sau đỡ khổ hơn. Thế rồi, tôn giả tìm đến những xóm nhà lao động nghèo khổ, những gia đình Thủ-đà-la hay Chiên-đà-la để trì bình khất thực. Món cơm tấm trộn trấu cũng được. Món cháo siu nguội còn lại ngày hôm qua cũng được. Có lần đứng trước cửa nhà của một người nô lệ, căn nhà tồi tàn chỉ như chuồng bò xiêu vẹo. Một người đàn bà bước ra chào xá ngài với nước mắt: “Bạch ngài, con không có gì cả!” Tôn giả dịu dàng nói: “Không ai là không có gì, này nữ thí chủ!” Người đàn bà nói lời chân thật: “Mấy ngày hôm nay con chỉ xin được nước rửa gạo tấm của người hàng xóm để uống cần hơi”. Tôn giả mỉm cười nhẹ: “Thí chủ cầm hơi được thì ta cũng cầm hơi được mà!” Nghe nói vậy người đàn bà hối hả vào nhà, lấy “thực phẩm” ấy sớt vào bát cho ngài. Tôn giả trân trọng đón nhận rồi trải y hai lớp ngồi xuống và thọ dụng “vật thực” ấy ngay tại chỗ. Người đàn bà sung sướng, hoan hỷ quá, quỳ sập xuống, ràn rụa nước mắt. Lần thọ thực ấy của tôn giả là sau 7 ngày xuất diệt thọ tưởng định nên phước báu của người cúng dường được trổ quả tức khắc: Chư thiên xúc động, vua chúa xúc động, chư vị đại gia xúc động ai cũng muốn đến để chia phước. Kể tóm tắt là sau đó, người đàn bà thoát cảnh đói nghèo.
    Tôn giả Subhūti là em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc, là một thương gia, là một triệu phú, sau khi gặp Phật, xuất gia, ông chọn núi rừng thanh vắng để ẩn cư, tu tập. Một lần nọ, tôn giả ôm bát đứng nơi một căn nhà nghèo khổ. Bên trong, người đàn bà Chiên-đà-la vừa chuẩn bị xong một bát cháo loãng định cho con ăn. Thấy tôn giả, bà nhìn quanh, đưa tay lục tìm chỗ này, chỗ nọ... Có lẽ thấy không còn vật thực nào khác nữa, bà bước ra, đổ hết bát cháo vào bát của ngài. Đứa bé khóc ngăn ngắt. Bàng hoàng cả người, tôn giảnói: “Thí chủ không còn gì! Cả cho mình và cho đứa trẻ. Thọ nhận thì ta đã thọ nhận rồi. Vậy hãy lấy cháo này cho trẻ nó ăn”. Nói ba lần như thế, người đàn bà cũng không chịu: “Thân phận con thấp hèn. Thấy ngài, được cúng dường gì cho ngài, con cảm giác như cọng cỏ khô mà hớp được một chút sương; như giữa sa mạc, một mầm xanh nhỏ nhoi lại được nhú lên! Ngài đừng lấy đi chút hy vọng cuối cùng của con trên cuộc đời này!” Thuở ấy, tôn giả đang còn phàm nên ngài đã chảy nước mắt và người đàn bà cũng chảy nước mắt. Quả thật, tôn giả đã không an tâm được khi nhận vật thực nơi những người quá nghèo khổ; ngài có cảm giác như tước đoạt hoặc bớt xén vào cái phần vật thực vốn đã quá ít ỏi của họ! Đức vua Bimbisāra nghe được chuyện, xúc động quá, tức khắc ông nói với quân hầu: “Các ngươi hãy tìm cho ra ngôi nhà của người nô lệ ấy. Trẫm sẽ ban thưởng xứng đáng, hậu hĩ; không chỉ là một giọt sương mà có thể là cả một cơn mưa rào!” Thế đấy, rồi người nữ nô lệ kia cũng thoát được cảnh khốn khổ.
    Chuyện xưa là như vậy.
    Hơn một năm nay, hễ đến ngày chủ nhật là chúng tôi đi trì bình khất thực. Thường thì tôi cùng chư sư, khi mười, mười hai, đôi khi mười tám, hai mươi vị ôm bát đi xin ăn khắp thành phố Huế, cả ngoại ô, kể cả một vài làng quê xa. Vật thực ngày nay, thời đại vật chất thịnh mãn này thì quá nhiều, quá sung mãn, và ai ai dường như cũng có khả năng đặt bát cúng dường cả. Không có cái cảnh “xót xa” như thuở trước. Chúng tôi không dám noi gương hai vị đại tôn giả ở trên - như vầng nhật nguyệt lồng lộng giữa trời cao - chỉ xin được như là hạt bụi dính trên đôi chân trần của quý ngài thôi. Chúng tôi là gì cơ chứ? Đời sống tu sĩ thời nay quá lợi dưỡng, quá đủ mọi thứ tiện nghi; và bản thân chúng tôi cũng vậy, thì một vài hôm sống theo hạnh xin ăn, chẳng lẽ lại không thực hiện nổi hay sao?
    Chúng tôi, trên từng bước đi, ai cũng cảm nhận được rằng, khi đi trì bình khất thực như thế mình sẽ học được nhiều điều, và sự tu tập cũng khá hơn so với những lúc ở chùa với những công việc liên hệ bộn bề quanh năm. Và có một thông điệp rõ ràng là chúng tôi không thọ nhận tiền bạc đúng với giới điều quy địnhđể phá bỏ hình ảnh xấu như ở những nơi khác đầy rẫy tu sĩ giả mạo kiếm ăn tà mạng.
    Chúng tôi đều là tu sĩ còn lắm tham sân phiền não, xem việc đi trì bình khất thực là một pháp môn tu tậpnên đã tự răn bảo mình những điều tâm niệm để luôn cố gắng thu thúc và hành trì.

    Có mười điều tâm niệm như sau:


    Điều một: Mình là một tu sĩ đi xin ăn, xin ăn cả “những người đi ăn xin” thì mình đúng là kẻ vô sản, bần hàn nhất trên thế gian. Vậy nếu có cơ sở chùa chiền, tu viện, tự viện, vàng bạc, tiền gởi ngân hàng... gì đó thì đều là của đàn-na tín thí, của Tam Bảo... chớ nào phải của mình đâu!

    Điều hai: Mình là tu sĩ vô sản bần hàn như điều một, thì có gì đáng để tự hào, hãnh diện; chẳng có gì đáng để vênh váo, phô phang, kiêu căng, ngã mạn. Hãy học hạnh của tôn giả Sāriputta tự coi mình như miếng giẻ chùi chân, ai chùi chân bẩn chân dơ lên đấy cũng được cả.

    Điều ba: Mình là tu sĩ đi xin ăn là thọ nhận tấm lòng quý kính, đức tin của mười phương đàn na tín thí – thì coi chừng, phải cẩn thận khi thọ dụng, nó là miếng sắt lửa địa ngục nung đỏ!

    Điều bốn: Mình là tu sĩ đi xin ăn, khi nhận cái kẹo, cái bánh hay gói mì, hộp sữa thì đều phải trân trọngbình đẳng như nhau– vì đằng sau vật thực ấy là tấm lòng thành, là sự cung kính cúng dường của thập phương tín thí.

    Điều năm: Mình là tu sĩ đi xin ăn thì đừng có “tâm viên, ý mã” mà phải thường trực chánh niệm, tỉnh giác; có thể tập trú năng lượng tâm từ, có thể tập trú tâm giải thoát cho thí chủ có phước mới xứng với phẩm hạnh của sa-môn.

    Điều sáu: Mình là tu sĩ, mình là ông sư, mình là vị tăng, đại diện cho chư thánh phàm tăng ba đời – thì phải trang nghiêm, mẫu mực, sáu căn gìn giữ, phải lưu lại hình ảnh xuất trần tam y nhất bát như một biểu tượngthánh thiện và cao đẹp giữa lòng thế gian.

    Điều bảy: Mình là tu sĩ thì đây là cơ hội cho mình an lạc trong từng bước chân, trong từng hơi thở tỉnh thức hiện tiền – vì khi ấy mình không tham sân si, không phiền não, không bị những hạt giống xấu ác nhiều đời ở trong tâm chi phối.

    Điều tám: Mình là tu sĩ thì phải học hạnh của tôn giả Puṇṇā (Phú-lâu-na) như một thớt voi lâm trận, không sợ hãi bất kỳ một lằn tên mũi đạn nào từ những lời đàm tiếu, khinh thị, chê bai... kể cả sĩ nhục, chửi mắng của ngoại đạo, của ác kiến thế gian.

    Điều chín: Mình là tu sĩ, trong lúc đi xin ăn, có thể bị xe tông, tai nạn hoặc cái chết có thể xẩy ra bất cứ lúc nào – thì mình sẽ mỉm cười đón nhận nhẹ nhàng và vô cùng thanh thản.

    Điều mười: Mình là tu sĩ tầm thường, còn nhiều xấu ác, trước đây có lỡ phạm giới này, giới kia, nặng hay nhẹ thì ít nhất những thời gian ôm bát đi xin ăn như thế, tâm và trí mình cũng trắng bạch như vỏ ốc, mát mẻ, trong sáng và thanh tịnh dường bao!

    Để kết luận, tôi xin tặng chư tăng khất sĩ mười phương bài thơ Người Khất Thực được làm tại chùa Như Ý, Nha Trang năm 1974 khi tôi ôm bát, đi chân đất từ Sài Gòn lang thang qua các tỉnh miền Trung:

    bình bát, cơm ngàn nhà
    thân chơi muôn dặm xa
    mắt xanh xem người thế
    mây trắng hỏi đường qua!

    mây trắng đến miền xa
    vui sao cảnh không nhà
    bánh cơm ngoài cuộc thế
    thong dong tháng ngày qua 

    con đường này muôn lối
    đi nơi nào thì đi
    dặm trần không tên tuổi
    mây trời bay vô vi

    hèn sang không hỏi nữa
    bần phú, nước sông xanh
    như chim ta ghé cội
    như gió ta qua cành

    con suối này ta ngủ
    trăng vàng ta gối đầu
    ưu tư là viên sỏi
    rớt vào lòng biển sâu

    hang núi ta ngồi chơi
    nghe ve kêu mùa hạ
    giặt y phơi cuối đồi
    làm bài thơ trên đá 

    thức dậy giữa mờ sương
    con trăng kia còn ngủ
    ta ngồi quán vô thường
    ta tập nghe hơi thở

    nắng sớm đã lên rồi
    hoa treo nhiều hạt ngọc
    chim chóc hót um trời
    ta đứng lên từ giã

    như cô hạc ngàn năm
    suối trong không tìm lại
    như hoa nở một lần
    thiên thu là hiện tại

    nhất bất thiên gia phạn
    cô thân vạn lý du
    kỳ vi sinh tử sự
    giáo hoá độ xuân thu!

    mây trắng, cơm ngàn nhà
    qua sông, gió đưa qua
    mắt xanh xem người thế
    lòng hồng thắm muôn xa

    ta hỏi con chim nhỏ
    dừng bên góc đồi sim
    nơi nào suối nước uống
    nơi nào bóng cây im

    ừ rừng ta xuống chợ
    từ núi ta qua non
    phố phường và đồng nội
    ta đi, nẻo bụi mòn

    gió hát ru ta ngủ
    mây vàng đến đắp chăn
    con sóc hiền đứng ngó
    hạt đa rớt bên chân

    lại thức dậy, lại đi
    chân đưa ta về xóm
    qua thắng cảnh núi sông
    qua trăng tà, trăng lặn

    miếu Bà, ta ngồi thiền
    đền Ông, ta khất thực
    ta nhận vật, không tiền
    ta ăn chuối, ăn bánh

    người thương cho ăn chay
    người thương cho ăn mặn
    trái hồng nở trên tay
    phước hồng phô nhụy thắm

    ta lại qua sông xanh
    ta lại qua bến vàng
    chân ta theo gió thổi
    thong dong và lang thang

    hoa trắng đơm ngàn nhà
    vui chơi trăm dặm xa
    mắt xanh xem người thế
    mây trắng hỏi đường qua...

    MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
    Nội dung chính
      Tags: Minh Đức Triều Tâm Ảnh Sư Giới Đức THƠ VĂN

      Cùng chuyên mục

        Tin mới

          Đọc nhiều

          • Thầy Viên Minh: 427 pháp thoại (mp3) trong các khóa Thiền Vipassanā & Sách nói
            Thầy Viên Minh: 427 pháp thoại (mp3) trong các khóa Thiền Vipassanā & Sách nói
            12 thg 10, 2018

            ☸  Theo dõi budsas.asia trên Fanpage Here & Now , nhóm  THỨC TỈNH MỤC ĐÍCH SỐNG , web  Phapamnguyenthuy.org .    ❗  Chờ vài giây, sau ...

          • Ăn chay ăn mặn hay tu theo Phật? - Tâm Định
            Ăn chay ăn mặn hay tu theo Phật? - Tâm Định
            05 thg 11, 2018

            Ăn chay mà không có thực tập Bát chánh đạo thì chính là đang gieo duyên tái sanh thành loài chúng sanh ăn thực vật trong...

          • Sự Tích Chôl Chnam Thmây
            Sự Tích Chôl Chnam Thmây
            23 thg 1, 2013

                   Chôl Chnam Thmây tức là "Vào năm mới" của dân tộc Khmer, lễ được diễn ra vào ngày 13, 14 và 15 tháng tư hàng năm và ngày lễ...

          • Chấp nhận mất mát
            Chấp nhận mất mát
            31 thg 3, 2017

            Hỏi: Con đang rất đau khổ, bởi vì vợ chồng con bất hòa. Mấy tháng trước mẹ con vừa mất thì đến nay bố con không muốn sống nữa. Bố con kinh ...

          • Bảng chữ cái Khmer
            Bảng chữ cái Khmer
            26 thg 4, 2013

            BẢNG CHỮ CÁI NGUYÊN ÂM VÀ CHÂN BẢNG CHỮ CÁI PHÂN CHIA THEO NGUYÊN ÂM  GIỌNG "O" VÀ NGUYÊN ÂM  GIỌNG "Ô" NGUYÊN ÂM ĐỘC LẬ...

          • BẢY LOẠI THÁNH NHÂN
            BẢY LOẠI THÁNH NHÂN
            15 thg 4, 2018

            Như chúng ta đã thấy, tất cả các bậc thánh đều có thiền siêu thế kèm theo các đạo, quả chứng của họ. Hơn nữa, ở mỗi trong bốn giai đoạn giải...

          Có thể bạn quan tâm

            Buddha
            Here & Now
            Trang chủ
            Hotline: 0987 005 4**
            Liên hệ góp ý
            RSS
            Lên đầu trang


            Here & Now



            DÂN TỘC & ĐẠO PHÁP

            © 2018 - 2019 www.budsas.asia

            Địa chỉ: Here & Now
            Facebook: Thạch Thuận Hòa
            Email: thachthuanhoa@gmail.com
            NÔI DUNG TRÊN TRANG NÀY ĐƯỢC SƯU TẦM TỪ NHIỀU NƠI. THÀNH THẬT XIN LỖI NẾU CÓ SỰ VI PHẠM BẢN QUYỀN. XIN BÁO CHO CHÚNG TÔI ĐỂ GỠ BÀI